Điển tích vua Tự Đức dâng roi mây cho mẹ đánh đòn và bài học về lòng hiếu thảo

Theo dõi Nhất Nam Y Viện trên goole news

Trong mỗi gia đình Việt Nam từ xưa đến này, lòng hiếu thảo, yêu kính ông bà cha mẹ luôn là một nét văn hóa tốt đẹp và được truyền từ đời này qua đời khác. Và một trong những tấm gương được lịch sử ca ngợi về lòng hiếu thảo là điển tích về vua Tự Đức.

 

Giai thoại về vua Tự Đức

Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì, là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883, ông được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Dực Tông. Trong suốt thời gian trị vì của mình ông chỉ sử dụng duy nhất một niên hiệu là Tự Đức nên thường được gọi với tên này.

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1829) tại Huế, là con thứ nhưng là đích tử của vua Thiệu Trị và Phạm Thị Hằng (bà Từ Dụ). Khi còn nhỏ Hồng Nhậm còn có tên khác là Nguyễn Phúc Thì. Ngoài ra, theo truyền thống hoàng tộc Nguyễn Phúc có từ thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, hoàng tử sinh ra để dễ nuôi sẽ được đặt thêm tên có chữ Mệ, vì vậy thuở nhỏ ông còn được gọi là Mệ Tríu.

Vì anh trai của ông, Nguyễn Phúc Hồng Bảo, là một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành nên vua Thiệu Trị trước lúc qua đời đã để di chiếu truyền ngôi cho ông. Bấy giờ ông mới 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm 1847 ông chính thức lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, bắt đầu từ năm sau là 1848. Khi Tự Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn cai trị tuân theo phong cách Nho giáo.

Điển tích vua Tự Đức dâng roi mây cho mẹ đánh đòn

Vua Tự Đức triều Nguyễn là người con hết sức có hiếu với mẹ. Lên ngôi khi 18 tuổi, suốt gần 36 năm trị vì đất nước, vua Tự Đức rất coi trọng bổn phận làm con với mẹ là Hoàng Thái hậu Từ Dụ.

Nhà vua đặt cho mình lịch làm việc cố định: Vào các ngày chẵn trong tháng, vua cùng đoàn tùy tùng vào cung Diên Thọ vấn an sức khỏe mẫu hậu, còn các ngày lẻ thì thiết triều hoặc lo công việc triều đình. Như vậy, mỗi tháng, nhà vua chầu cung 15 lần, ngự triều 15 lần, chỉ trừ khi vua đi công cán ở ngoài kinh thành hoặc yếu mệt thì mới không thực hiện bổn phận này.

 

Hoàng thái hậu Từ Dụ là người thuộc nhiều sử sách, hiểu biết rộng. Khi hoàng thái hậu bảo ban câu gì hay, vua Tự̣ Đức liền biên chép ngay vào một quyển gọi là “Từ Huấn Lục”. Cuốn sách này vua luôn mang trong mình, khi rảnh lại mang ra nghiền ngẫm.

Từ Dụ Hoàng thái hậu truyện trong bộ Đại Nam liệt truyện viết: “Đức vua phụng sự mẹ chí hiếu lắm. Bà thường muốn nghe đọc sách sử, vua thuận theo ý bà. Chẳng có khi nào dám trái ngược, chừng nào mẹ hết muốn nghe, bảo thôi đọc thì vua mới thôi. Chẳng những việc đọc sách sử mà bất cứ chuyện gì, vua cũng nhất nhất thừa theo ý mẹ”.

Một câu chuyện được sách sử triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện ghi lại, cho thấy vua Tự Đức “răm rắp” nghe lời mẹ.

Đó là một ngày rảnh việc nước, vua đi ngự săn bắn tại rừng Thuận Trực. Gặp phải nước lụt, trong khi đó còn hai ngày nữa thì đến ngày giỗ vua cha Thiệu Trị mà vua vẫn chưa trở về. Đức Từ Dụ nóng ruột sai quan đại thần Nguyễn Tri Phương đi tìm và rước nhà vua về.

Nguyễn Tri Phương phụng lệnh lên đường, đi được nửa đường thì gặp thuyền ngự đang chèo lên, do dòng nước chảy mạnh không chèo nhanh được nên gần tối thuyền ngự mới tới bến.

Vừa tới hoàng cung, vua liền lên kiệu đi thẳng sang cung Diên Thọ để lạy xin chịu tội dù khi đó trời vẫn đang đổ mưa. Nhà vua dâng lên một chiếc roi mây đặt trong mâm son, để trên ghế rồi nằm phục xuống sàn xin chịu đòn. Đức Từ Dũ ngồi xoay mặt vào màn không nói lời nào, một hồi lâu, bà mới xoay mặt ra lấy tay hất cái roi đi.

Tuy không phạt roi, hoàng thái hậu dặn nhà vua phải ban thưởng cho quan quân cực khổ đi hầu ngự, rồi sáng mai vào hầu lạy. Lúc đó, vua Tự Đức mới đứng dậy, lạy tạ lui về. Ngay đêm hôm đó, nghe lời của mẫu hậu, vua Tự Đức ban thưởng cho quan quân đi hầu ngự.

Câu chuyện này đã được dựng thành tích cải lương Tự Đức dâng roi, được nhân dân rất yêu thích.

Một lần khác, vua Tự Đức mải vui ở cửa Thuận An nên bỏ buổi ngự triều. Hoàng thái hậu giận lắm. Lúc về, vua có đến xin lỗi mẹ, nhưng bà sai người đóng cửa cung Diên Thọ không cho vào. Nhà vua phải đứng chờ cả giờ, sau bà mới cho gọi vào và dạy: “Nước đang có nhiều việc rối, hoàng đế đã không lo lắng mà còn vui chơi được sao? Thôi, hãy mau về triều cùng các quan bàn quốc kế”.

Bà từng răn dạy vua Tự Đức: “Biết lỗi với ta chỉ là phụ, biết lỗi với dân mới là chính”. Nghe lời dạy bảo của bà, Tự Đức không chỉ là vị vua hiếu thảo, mà luôn thể hiện tinh thần yêu nước và luôn siêng năng việc triều chính cũng như không ngừng học tập hàng ngày.

Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *